Ngành giáo dục có khối lượng dữ liệu khổng lồ và đa dạng. Ảnh minh hoạ: internet
Yêu cầu về quản lý dữ liệu trong ngành giáo dục
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã khẳng định chiến lược đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó, dữ liệu được xác định là yếu tố trung tâm và then chốt để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu phát triển đến năm 2030 là phải hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia và các ngành.
Trong bối cảnh đó, ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) – vốn quản lý một khối lượng dữ liệu khổng lồ và đa dạng – đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để kiến tạo và quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên số này. Dự thảo Nghị định quy định quản lý dữ liệu giáo dục và đào tạo ra đời chính là lời giải cho bài toán này, là bước đi cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là tinh thần của Nghị quyết 57.
Theo Bộ GD&ĐT, ngành giáo dục hiện sở hữu một nguồn dữ liệu phong phú, liên quan mật thiết đến mọi lĩnh vực khác. Tuy nhiên, một tồn tại lớn nhất là việc thiếu vắng một văn bản dưới luật điều chỉnh toàn diện hoạt động quản lý dữ liệu. Điều này dẫn đến những bất cập nghiêm trọng, đi ngược lại với yêu cầu về dữ liệu tập trung, chuẩn hóa của kỷ nguyên số.
Thực tế cho thấy, các Cơ sở dữ liệu (CSDL) hiện có của Bộ GD&ĐT chưa kết nối, chia sẻ hiệu quả giữa các thông tin, dữ liệu. Dữ liệu và số liệu thống kê còn tản mát, thiếu sự liên kết, thậm chí nhiều thông tin bị trùng lặp do sự giao thoa về đối tượng quản lý. Nguồn dữ liệu thu Mức độ trưởng thành văn hoá doanh nghiệp trở lại cấp độ 4 sau hai năm tại các CSDL chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chí "đúng, đủ, sạch, sống", đặc biệt là tính pháp lý để phục vụ cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, dữ liệu GD&ĐT nằm dàn trải ở nhiều bộ, ngành, cơ quan và các cơ sở giáo dục nhưng lại chưa có quy định pháp lý, quy chế phối hợp cụ thể để quản lý, sử dụng và chia sẻ liên thông dữ liệu. Đặc biệt, trong quá trình triển khai Đề án 06/CP, việc kết nối, chia sẻ và đồng bộ dữ liệu văn bằng, chứng chỉ, học bạ với CSDL Quốc gia về Dân cư và ứng dụng VNeID là yêu cầu bắt buộc để phục vụ giải quyết thủ tục hành chính.
Những hạn chế này cho thấy nếu không có một Nghị định chuyên ngành, việc quản lý dữ liệu giáo dục sẽ tiếp tục đình trệ, cản trở tiến trình chuyển đổi số toàn diện của ngành, đồng thời làm giảm hiệu quả khai thác nguồn tài nguyên số để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Hoàn thiện hành lang pháp lý để hiện thực hóa chiến lược quốc gia
Việc xây dựng Nghị định quy định quản lý dữ liệu GD&ĐT không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà còn là sự thực thi chủ trương chính trị và pháp lý một cách nhất quán. Ngoài Nghị quyết 57-NQ/TW xác định dữ liệu là yếu tố trung tâm của chuyển đổi số, sự cần thiết của Nghị định còn được củng cố bởi các văn bản quan trọng khác.
Đầu tiên là Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025) về đột phá phát triển GD&ĐT đã chỉ đạo chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong GD&ĐT. Trong đó, yêu cầu trọng tâm là xây dựng chiến lược dữ liệu phục vụ cho chuyển đổi số và phát triển nền tảng giáo dục quốc gia ứng dụng AI. Nghị quyết cũng yêu cầu phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia kết nối liên thông với hệ thống thông tin thị trường lao động.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 66-NQ/TW (30/4/2025) thúc đẩy đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, chuyển từ quản lý sang kiến tạo, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Việc hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác dữ liệu GD&ĐT chính là yêu cầu cấp thiết để người dân được thụ hưởng lợi ích từ hoạt động chuyển đổi số.
Như vậy, Nghị định quản lý dữ liệu GD&ĐT là công cụ pháp lý trực tiếp để Bộ GD&ĐT hiện thực hóa các nhiệm vụ chiến lược được giao tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đặc biệt là mục tiêu về xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia của Nghị quyết 57.
Về mặt pháp lý, Luật Dữ liệu, Luật Giao dịch điện tử và Luật Căn cước mới được ban hành đã tạo hành lang cơ sở ban đầu để kiến tạo và thực thi các chính sách về sử dụng dữ liệu. Tuy nhiên, cần có một văn bản dưới luật chuyên ngành để làm rõ: phạm vi dữ liệu cần quản lý (dữ liệu học tập suốt đời, văn bằng, chứng chỉ, học bạ, bảng điểm, v.v.); trách nhiệm của các chủ thể liên quan; quy trình thu thập, chuẩn hóa, lưu trữ, chia sẻ, liên thông và bảo vệ dữ liệu trong toàn ngành.
Nghị định này sẽ đảm bảo thi hành thống nhất, đồng bộ và hiệu quả các quy định hiện hành về dữ liệu, đóng vai trò nền tảng cho việc triển khai Cơ sở dữ liệu quốc gia về GD&ĐT.
Ứng dụng chuyển đổi số trong dạy học tại trường tiểu học Vinschool. Ảnh: Bảo San
Kiến tạo nền tảng giáo dục số an toàn, thông minh
Dự thảo Nghị định được xây dựng nhằm đạt được năm mục tiêu then chốt, mang tính đột phá cho ngành giáo dục trong kỷ nguyên số:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý dữ liệu GD&ĐT, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ về tạo lập, thu thập, kết nối, chia sẻ và sử dụng dữ liệu trong toàn ngành.
Thứ hai, quy định đầy đủ cho việc hình thành CSDL quốc gia về GD&ĐT. Đây là mục tiêu cốt lõi, đảm bảo công tác quản lý nhà nước, đồng thời phục vụ chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương để giải quyết thủ tục hành chính, cải cách hành chính và phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Thực hiện triệt để tinh thần Nghị quyết 57 về kết nối CSDL Quốc gia).
Thứ ba, quy định về việc tạo lập dữ liệu số liên quan đến hồ sơ học tập suốt đời của người học (văn bằng, chứng chỉ, học bạ...). Dữ liệu này sẽ được chia sẻ, đồng bộ và sử dụng để tích hợp trên ứng dụng định danh quốc gia (VNeID), tạo thuận lợi cho người dân tự phát triển bản thân và xây dựng chiến lược giáo dục học tập suốt đời.
Thứ tư, quy định về tổ chức dữ liệu GD&ĐT, CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành, hình thành và sử dụng dữ liệu lớn (Big Data) về GD&ĐT. Đây là tiền đề để đẩy mạnh triển khai các nền tảng số giáo dục thông minh (trường học số, lớp học thông minh), phục vụ các cơ quan, đơn vị, người dân và doanh nghiệp.
Thứ năm, CSDL quốc gia và chuyên ngành sẽ cung cấp, chia sẻ nguồn dữ liệu lớn, góp phần thực hiện mục tiêu nâng tầm chiến lược phát triển giáo dục của Việt Nam hội nhập với thế giới theo các mô hình tiên tiến như giáo dục số, giáo dục trí tuệ nhân tạo, quản trị giáo dục thông minh.
Việc xây dựng Nghị định quy định quản lý dữ liệu GD&ĐT là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và các chủ trương, chính sách, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ.
Nghị định này không chỉ là công cụ pháp lý để giải quyết những tồn tại nội tại của ngành giáo dục mà còn là một công cụ kiến tạo chính sách mạnh mẽ. Nó đặt nền tảng cho việc hình thành một hệ sinh thái giáo dục số an toàn, mở, tin cậy, lấy người học làm trung tâm. Quan trọng hơn, đây là điều kiện cần thiết để hiện thực hóa các nhiệm vụ được giao tại Chiến lược dữ liệu quốc gia, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại, dựa trên dữ liệu, qua đó góp phần đưa Việt Nam vươn lên trong kỷ nguyên số theo đúng định hướng chiến lược đã được Bộ Chính trị khẳng định tại Nghị quyết 57-NQ/TW.
Báo Thanh Tra - Tin tức cập nhật trong ngày