Theo Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh, tiêu đề của Điều 20 là “thời hạn thanh tra” – được hiểu là khoảng thời gian tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc tiến hành thanh tra trực tiếp, theo khái niệm tại khoản 10, Điều 2 của Luật Thanh tra.
Tuy nhiên, quy định tại khoản 1, Điều 20 Luật Thanh tra 2025, “thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra” được xác định như sau: “Cuộc thanh tra do Thanh tra Bộ Quốc phòng, Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra tỉnh tiến hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp hoặc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì có thể gia hạn một lần, không quá 25 ngày.”
Điều 21, Luật Thanh tra cũng quy định, trình tự, thủ tục của một cuộc thanh tra gồm 3 giai đoạn: (1) Chuẩn bị thanh tra (từ khi thu thập thông tin đến khi công bố quyết định thanh tra); (2) Tiến hành thanh tra trực tiếp (từ khi công bố quyết định thanh tra đến khi kết thúc thanh tra trực tiếp); (3) Kết thúc cuộc thanh tra (từ khi báo cáo kết quả đến khi công khai kết luận thanh tra).
Như vậy, “thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra” theo quy định tại khoản 1, Điều 20 đang có sự mâu thuẫn, không nằm trong nội hàm của “thời hạn thanh tra” theo tiêu đề của Điều 20.
Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh cho rằng, việc quy định thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra của Thanh tra cấp tỉnh là 45 ngày, trong đó bao gồm cả thời gian “chuẩn bị thanh tra”, là chưa phù hợp với thực tiễn, vì thời gian khảo sát trước khi mở đoàn tùy thuộc vào tính chất, mức độ quan trọng của cuộc thanh tra, có thể kéo dài và không thể xác định được cụ thể. Kế thừa quy định của Luật Thanh tra qua các thời kỳ, thời hạn 45 ngày là “thời hạn thanh tra”, không phải “thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra”.
Trước phản ánh, kiến nghị này, Thanh tra Chính phủ nhấn mạnh, Điều 20 của Luật Thanh tra năm 2025 quy định về thời hạn thanh tra nhằm xác định cụ thể khoảng thời gian tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc tiến hành thanh tra trực tiếp, theo quy định tại khoản 10, Điều 2 của Luật. Quy định này cũng phù hợp với khoản 2, Điều 21 của Luật Thanh tra.
Phần mở đầu của khoản 1, Điều 20 quy định về “thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra” nhằm gắn thời hạn thanh tra với từng cuộc thanh tra cụ thể. Do đó, thời hạn thanh tra không bao gồm thời gian chuẩn bị thanh tra. Thời gian chuẩn bị thanh tra không được tính vào thời hạn thanh tra được quy định tại Điều 20 Luật Thanh tra năm 2025.
Báo Thanh Tra - Tin tức cập nhật trong ngày